Giá cả ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tương đối ổn định, nhưng kinh nghiệm của họ lại khó áp dụng nơi khác.
Chỉ số lạm phát của Mỹ là 8,5% trong tháng 3 và 7,5% năm 2021, cao nhất kể từ năm 1982. Tại eurozone, lạm phát đạt kỷ lục 7,5% vào tháng 4. Ngân hàng Thế giới cho biết khoảng 71% trong số 109 nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã ghi nhận mức lạm phát từ 5% trở lên năm 2021, cao gấp đôi so với cuối năm 2020.
Dù lạm phát của Trung Quốc dự kiến tăng nhẹ khi số liệu tháng 4 được công bố trong tuần này, hầu hết nhà kinh tế tin rằng nó sẽ không vượt qua mục tiêu năm nay của chính phủ là khoảng 3%.
Một phần nguyên nhân là nhu cầu tiêu dùng ở Trung Quốc hiện rất yếu. Cùng với đó, Trung Quốc sử dụng các phương pháp như kiểm soát giá và bảo hộ thương mại, để lạm phát nhập khẩu không bị đẩy sang người tiêu dùng. Theo các nhà phân tích, những chiến lược đó phát huy tác dụng trong ngắn hạn, nhưng sẽ tốn kém về dài hạn và khó có thể áp dụng ở các nền kinh tế mang tính thị trường nhiều hơn.
Trung Quốc cũng ít chịu ảnh hưởng từ lạm phát do nhu cầu. Vì nước này phụ thuộc nhiều vào đầu tư hơn là tiêu dùng để thúc đẩy tăng trưởng. Hiện sức mua ở đây thậm chí còn ít có khả năng tác động đến lạm phát hơn so với bình thường.
Bắc Kinh cũng không tung kích thích trong đại dịch nhiều như Mỹ, khiến các hộ gia đình có ít tiền mặt dư thừa để chi tiêu. Kinh tế Trung Quốc thậm chí đã ở trong tình trạng ảm đạm nhiều tháng qua, do giới chức siết kiểm soát ngành công nghệ và bất động sản.
Cùng với đó, các đợt phong tỏa đã đóng băng hoạt động tại nhiều thành phố. "Tiêu thụ ở Trung Quốc sẽ còn yếu đi trong tương lai", Leland Miller, CEO công ty nghiên cứu China Beige Book International, dự báo.
Các yếu tố khác cũng góp phần vào việc này. Thịt lợn, sản phẩm chủ lực trên bàn ăn của người Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong chỉ số giá tiêu dùng. Giá thịt lợn giảm 30% năm 2021 khi các kho dự trữ được phục hồi sau đợt bùng phát dịch tả lợn châu Phi khiến giá tăng vọt năm 2018.
Dù vậy, Trung Quốc vẫn đối mặt với lạm phát nhập khẩu vì mua một lượng lớn dầu, khí đốt và ngũ cốc từ nước ngoài. Giá của chúng đã tăng vọt trong bối cảnh nguồn cung biến động kể từ sau khủng hoảng Ukraine.
Chỉ số giá sản xuất của Trung Quốc - thước đo lạm phát tại nhà máy - phản ánh phần nào giá mà các nhà sản xuất phải trả cho nguyên liệu thô nhập khẩu. Chỉ số này đã đạt đỉnh 26 năm là 13,5% trong tháng 10/2021, sau đó giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao là 8,3% trong tháng 3/2022.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn duy trì lượng dự trữ khổng lồ các mặt hàng chiến lược để hạn chế áp lực giá cả. Hè năm ngoái, nhà chức trách đã bắt đầu giải phóng đồng và nhôm từ các kho dự trữ quốc gia. Họ cũng bơm ra thị trường đậu nành, gạo và lúa mì.
Tháng 12 năm ngoái, một quan chức Cục Dự trữ Thực phẩm và Chiến lược Quốc gia Trung Quốc cho biết nước này vẫn có đủ lúa mì dự trữ để đáp ứng nhu cầu trong 1,5 năm. Fitch Ratings cho biết Trung Quốc có đủ gạo để đáp ứng 103% nhu cầu năm.
Isabella Weber, Nhà kinh tế tại Đại học Massachusetts Amherst (Mỹ), cho biết Trung Quốc cũng có thể kêu gọi các doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống dự trữ nhà nước gánh chi phí nhập khẩu cao với các mặt hàng thiết yếu để không chuyển chúng đến người tiêu dùng ngay lập tức.
Ví dụ, khi giá dầu tăng quá cao, các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc sẽ gánh một phần mức tăng giá, trợ cấp cho giá xăng. "Chính phủ Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến sự ổn định giá cả. Họ có nhận thức khá nghiêm túc về tầm quan trọng của giá hàng thiết yếu", Weber nói.
Theo Chad Bown, Thành viên cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, Trung Quốc cũng sử dụng chính sách thương mại để kiểm soát giá cả. Năm ngoái, nước này hạn chế xuất khẩu thép và tăng thuế xuất khẩu để kiềm chế giá thép trong nước tăng cao. Tháng 3/2022, giá thép của Trung Quốc giảm 12% so với tháng 5/2021 nhờ các chính sách đó.
Tất nhiên, những động thái này đều phải đánh đổi. Bắc Kinh phải chi ngân sách để duy trì kho dự trữ chiến lược. Trợ cấp cho chủ sở hữu phương tiện giao thông có thể xóa sổ lợi nhuận của các nhà máy lọc dầu thuộc sở hữu nhà nước. Các chính sách bảo hộ thương mại có thể dẫn đến xung đột với các nước khác.
Lạm phát ở Trung Quốc tương đối ổn định thời gian qua. Lần cuối chỉ số này lập đỉnh là 5,9%, trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008, khi gói kích thích phục hồi đã đẩy giá bất động sản lên cao. Từ năm 2011 đến 2021, lạm phát trung bình chỉ ở mức 2,6%.
Câu hỏi lớn nhất đối với Trung Quốc là liệu các cách thức quản lý giá của họ có thể duy trì trong thời gian dài nếu lạm phát trở nên phổ biến trên toàn thế giới hay không. Các vụ phong tỏa gần đây ở Thượng Hải đã phác thảo ra bức tranh tình hình lạm phát tại Trung Quốc. Sự gián đoạn chuỗi cung ứng khiến việc vận chuyển hàng hóa vào thành phố trở nên khó khăn hơn. Nhiều người dân phàn nàn trên mạng xã hội rằng giá rau và các thực phẩm khác tăng gấp đôi hoặc hơn.
Xu hướng bảo hộ ở một vài nơi khác cũng có thể tác động đến Trung Quốc. Indonesia gần đây đã áp đặt lệnh cấm xuất khẩu đối với dầu cọ. Điều này có thể ảnh hưởng vì Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế cho rằng chi tiêu hộ gia đình yếu sẽ vẫn là yếu tố giữ chân lạm phát ở nước này trong tương lai gần.